Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng

Thứ tư - 12/03/2025 22:38
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” . Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây không chỉ là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng, mà còn là trách nhiệm, là vinh dự của mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức”, “là văn minh”, lãnh đạo đất nước ta, dân tộc ta, Nhân dân ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phần 1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ ĐẢNG

VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

 

Bao ve nen tang cua Dang
Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng

 

I. C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN - NHỮNG NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO SỰ RA ĐỜI CỦA CHÍNH ĐẢNG VÔ SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1. Sự ra đời của Đảng cộng sản và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

C.Mác, Ph.Ăng-ghen là hai lãnh tụ thiên tài của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong sự nghiệp nghiên cứu lý luận của mình, hai ông đã chứng minh một cách khoa học sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cùng với đó, hai ông cũng phát hiện và luận giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Đồng thời khẳng định và chứng minh, giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình phải có đảng cộng sản lãnh đạo. Vì vậy, hai ông cũng chính là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản. Hai ông đã trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân để giác ngộ và từng bước xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản, tham gia cải tổ “Liên đoàn những người chính nghĩa” thành “Liên đoàn những người cộng sản” - Tổ chức Đảng Vô sản đầu tiên của giai cấp công nhân (1847-1852).

Nhằm tạo cơ sở lý luận ban đầu cho tổ chức Đảng Vô sản hoạt động, C.Mác và Ph.Ăngghen đã soạn thảo “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848) và “Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản”, đó chính là những văn kiện có tính chất cương lĩnh và cơ sở tổ chức của các tổ chức cộng sản đầu tiên. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông có những cống hiến trong việc nêu ra và lý giải về tính tất yếu khách quan phải thành lập Đảng của giai cấp công nhân; quy luật ra đời của Đảng; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân.

* Đảng cộng sản ra đời là tất yếu

Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ nhất định sẽ xuất hiện các đảng chính trị. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Lúc ấy, ở Man-se-xtơ, tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trước tới nay những tác phẩm sử học cho là không đóng một vai trò nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một lực lượng lịch sử quyết định; rằng chúng là cơ sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện nay; rằng trong những nước mà đại công nghiệp đã làm cho những đối kháng giai cấp ấy phát triển đầy đủ, do đó, nhất là ở nước Anh, những đối kháng giai cấp ấy là cơ sở của sự hình thành ra các chính đảng, của các cuộc đấu tranh giữa các đảng”[1] .

Trong xã hội nô lệ đã xuất hiện các giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Song cuộc đấu tranh giai cấp giữa nô lệ với chủ nô, người bình dân với chủ nô không đòi hỏi phải có các đảng chính trị của giai cấp chủ nô, của giai cấp nô lệ, của người bình dân. Do trình độ chung của các giai cấp, cũng như trình độ tổ chức của bộ máy nhà nước chủ nô, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khi đó chỉ cần một lãnh tụ, một thủ lĩnh đại diện để tập hợp các lực lượng xã hội. Suy đến cùng, lực lượng sản xuất thấp kém dưới xã hội nô lệ quy định trình độ lý luận, nhận thức của các giai cấp và trình độ tổ chức bộ máy nhà nước tương đối thấp của chế độ nô lệ. Do đó, để đấu tranh chống lại giai cấp chủ nô cầm quyền, các giai cấp bị áp bức không cần các đảng chính trị lãnh đạo cuộc cách mạng chống chế độ nô lệ.

Đánh đổ chế độ nô lệ, thiết lập chế độ phong kiến là một bước tiến lớn của lịch sử nhân loại. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội làm xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến, ngoài hai giai cấp lớn là giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân còn có các giai cấp tư sản, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ ngày càng lớn mạnh. Lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc so với chế độ nô lệ là tiền đề vật chất có ý nghĩa quyết định để giai cấp địa chủ phong kiến xây dựng nên bộ máy nhà nước hùng mạnh bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Muốn đánh đổ chế độ phong kiến, lập nên chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản phải làm cách mạng xã hội đập tan bộ máy nhà nước phong kiến, giành chính quyền về tay giai cấp mình.

Song khác với nhà nước nô lệ trước đây, nhà nước phong kiến là một thiết chế chính trị, tư tưởng, văn hóa hùng mạnh, được xây dựng trên nền tảng lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển khá cao. Sự xuất hiện giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong lòng xã hội phong kiến thế kỷ XVI, XVII ở một số nước châu Âu là kết quả của lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển cao. Vì vậy, muốn làm cách mạng tư sản thắng lợi, giai cấp tư sản không thể chỉ dựa vào tài ba của một vài cá nhân vĩ đại, mà nó cần đến một tập thể đông đảo những con người cách mạng để tiến hành cuộc vận động cách mạng rộng lớn trong xã hội, vận động tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia vào cuộc cách mạng tư sản. Tập thể những con người cách mạng đó chính là các đảng chính trị, lực lượng chính trị tiến bộ, đại diện cho các tập đoàn tư bản lãnh đạo cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản thành công ở Hà Lan và Vương quốc Anh thể kỷ XVI, XVII đã đưa giai cấp tư sản lên vũ đài lịch sử. Kể từ đó cách mạng tư sản lần lượt nổ ra và thắng lợi ở các nước châu Âu, châu Mỹ, thiết lập chế độ tư bản thay thế chế độ phong kiến mục ruỗng, thối nát.

Khi cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt và phát triển đến một trình độ nhất định, trong giai cấp vô sản xuất hiện một lực lượng lãnh đạo. Đây là các đảng chính trị của giai cấp vô sản - đảng công nhân hay đảng vô sản (chưa phải là đảng cộng sản). Do đó, các đảng vô sản ra đời do yêu cầu lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là tất yếu. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn và vì khủng hoảng thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra, cho nên dẫn tới tình trạng tiền công của công nhân ngày càng trở nên bấp bênh; việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm cho tình cảnh của những người vô sản ngày càng bấp bênh, những cuộc xung đột cá nhân giữa công nhân và tư sản ngày càng có tính chất những cuộc xung đột giữa hai giai cấp. Công nhân bắt đầu từ việc thành lập những liên minh chống lại bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình. Thậm chí họ đi tới chỗ lập thành những đoàn thể thường trực để sẵn sàng đối phó, khi những cuộc xung đột bất thần xảy ra. Đây đó, đấu tranh nổ thành bạo động công khai”[2]

Giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử trở thành giai cấp cầm quyền, đứng trên vũ đài lịch sử, thiết lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, xóa bỏ cơ sở kinh tế, xã hội của chế độ người bóc lột người thì điều kiện tiên quyết là phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Chính đảng độc lập có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc, vì mục đích kinh tế trước mắt thành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, vì mục đích chính trị rộng lớn: phát triển giai cấp công nhân từ một giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”. Về vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân, chỉ khỉ được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp[3]

Đảng Cộng sản đầu tiên trên thế giới - Liên đoàn những người cộng sản, ra đời, phát triển từ một đảng chính trị (Liên đoàn Những người chính nghĩa) ngày càng lớn mạnh, đưa phong trào công nhân Pháp chuyển biến về chất, tác động đến phong trào công nhân ở nhiều nước châu Âu thời kỳ đó. Các đảng cộng sản của Quốc tế hai cũng có tiền thân là các đảng chính trị của giai cấp công nhân ở các nước châu Âu được chủ nghĩa Mác soi sáng. 

Như vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nền thống trị của giai cấp tư sản và sự ra đời của chính đảng vô sản với tư cách là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là một đòi hỏi tất yếu.

* Về quy luật ra đời của đảng cộng sản.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ đảng cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Nếu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học không kết hợp với phong trào công nhân thì về mặt tổ chức, thành tựu cao nhất của nó là các Hội truyền bá chủ nghĩa Mác. Nếu phong trào công nhân không kết hợp với chủ nghĩa xã hội khoa học, thì về mặt lý luận thành tựu cao nhất của nó là chủ nghĩa công đoàn. Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập vào phong trào công nhân, làm cho giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, có ý thức về cuộc đấu tranh chính trị nhằm giải phóng giai cấp và do đó nhận thấy tính tất yếu phải lập ra chính đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chuyên chính vô sản.

* Bản chất của Đảng cộng sản 

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, chính đảng là một tổ chức chính trị, có bản chất giai cấp. Chính đảng luôn mang bản chất giai cấp, không có chính đảng phi giai cấp và cũng không có chính đảng mang bản chất của nhiều giai cấp. Chính đảng của giai cấp nào thì mang bản chất của giai cấp đó và đại biểu trung thành chủ yếu cho lợi ích giai cấp ấy. 

Đảng cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, mang bản chất giai cấp công nhân, đó là sự kết hợp tinh hoa của giai cấp công nhân với chủ nghĩa Mác. Đảng cộng sản đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là thống nhất. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, các lợi ích này hoàn toàn thống nhất: “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy. Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào[4].

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các lợi ích này căn bản thống nhất, và được giải quyết một cách hài hoà. Các mâu thuẫn (nếu có) chỉ là cục bộ, không cơ bản và không đối kháng. 

Về cơ cấu thành phần xã hội trong tổ chức đảng, nếu các đại biểu của các giai cấp khác muốn tham gia vào phong trào công nhân thì trước hết phải vứt bỏ những tàn tích của giai cấp tư sản, tiểu tư sản và phải nắm vững thế giới quan của giai cấp công nhân. Mác chỉ rõ, thành phần xã hội của Đảng không phải là điều quyết định tính chất của một đảng, mà điều quyết định là ở lập trường tư tưởng, ở thế giới quan của giai cấp công nhân. Điều này có ý nghĩa thiết thực khi có những đảng của giai cấp công nhân mà thành phần đảng viên đa số là những nông dân, tiểu tư sản… do đó, cần phải chú trọng giáo dục, bồi dưỡng lập trường tư tưởng, thế giới quan của giai cấp công nhân để đảm bảo bản chất cách mạng của Đảng.

* Mục đích, lý tưởng, hệ tư tưởng của Đảng

Lý tưởng của đảng cộng sản là lý tưởng Cộng sản. Mục đích của đảng cộng sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền và thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản. “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền[5], xây dựng một xã hội không còn đối kháng giai cấp, không còn tư hữu, không còn áp bức, bóc lột - xây dựng chủ nghĩa cộng sản.

Hệ tư tưởng của đảng cộng sản là chủ nghĩa Mác “…học thuyết về những điều kiện giải phóng giai cấp vô sản[6]3.

* Chức năng, nhiệm vụ của đảng cộng sảntrong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

- Chức năng: lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, thực hiện mục tiêu, lý tưởng của đảng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản. Sự lãnh đạo đó được thể hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền; giai đoạn thứ hai là lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, bảo vệ đất nước và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.

- Nhiệm vụ: vận động, tập hợp, giáo dục giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đưa họ vào các phong trào cách mạng đấu tranh giành chính quyền. Trở thành đảng cầm quyền, đảng cộng sản lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trọng tâm là lãnh đạo phát triển kinh tế. Khi đó, “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng nh ững lực lượng sản xuất[7].

2. Những nội dung chủ yếu về xây dựng Đảng 

2.1. Xây dựng Đảng Cộng sản về chính trị, tư tưởng

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng xây dựng đảng về chính trị, mà trọng tâm là xây dựng Cương lĩnh và đường lối chính trị đúng đắn của cách mạng. Trong đó, xây dựng Cương lĩnh chính trị là vấn đề quan trọng hàng đầu. Cương lĩnh chính trị phải thể hiện rõ tôn chỉ, mục đích của đảng và những định hướng lớn về hoạt động của đảng, kể cả xây dựng nội bộ đảng và lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động thực hiện mục tiêu, lý tưởng của đảng.

Xây dựng Đảng về tư tưởng tức là đảng phải tiến hành giáo dục, rèn luyện đảng viên về chủ nghĩa Mác, hành động theo chủ nghĩa Mác; đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các hoạt động xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác; toàn đảng cộng sản là một khối thống nhất về ý chí và hành động. Đồng thời, các chi bộ và đảng viên phải tiến hành công tác tư tưởng trong giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp lao động khác; tuyên truyền nâng cao nhận thức của họ về chủ nghĩa Mác, tạo sự đồng tình, ủng hộ và tham gia vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và bọn áp bức, bóc lột, giành chính quyền và xây dựng xã hội mới.

C.Mác cùng Ph.Ăngghen xác định rõ lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, thẳng thắn bác bỏ mọi tư tưởng chống lại hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Hai ông đấu tranh bóc trần những quan điểm sai trái, dối trá của những tư tưởng tư sản, phong kiến, tiểu tư sản, tôn giáo và những quan điểm phản động khoác áo xã hội chủ nghĩa. 

2.2. Xây dựng đảng cộng sản về tổ chức

C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra xây dựng đảng về tổ chức, tập trung xây dựng hệ thống tổ chức của đảng; kết nạp đảng viên, đấu tranh đưa những người không xứng đáng ra khỏi đảng; xây dựng cấp ủy, bảo vệ đảng, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng... Hai ông đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản. Những nguyên tắc này được thể hiện tập trung ở Điều lệ của Liên đoàn Những người cộng sản và Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế thứ nhất), bao gồm:

Một là, đảng cộng sản phải được xây dựng và hoạt động theo tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ.

C.Mác và Ph.Ăngghen chưa dùng thuật ngữ “tập trung dân chủ”, song những nội dung cơ bản của nguyên tắc này được thể hiện đầy đủ trong Điều lệ của Liên đoàn Những người cộng sản và Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế. Những nội dung đó thể hiện một cách sâu sắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức và hoạt động của đảng cộng sản.

Chẳng hạn, ở việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng: "Bản thân tổ chức cũng hoàn toàn dân chủ, với những ban chấp hành được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn; chỉ điều đó thôi cũng đủ chấm dứt mọi toan tính manh động - tức là những toan tính đòi hỏi một chế độ độc tài, và biến Liên đoàn thành - ít nhất là trong thời bình thông thường - một hội tuyên truyền thuần túy. Điều lệ mới đó được đưa ra cho các chi bộ thảo luận, sau đó được thảo luận ở Đại hội thứ hai và cuối cùng đã được đại hội này thông qua ngày 8 tháng Chạp năm 1947 - thủ tục dân chủ hiện nay là như vậy" và "mọi ý kiến trái ngược và mọi điểm tranh cãi, sau hết, đều được giải quyết, những nguyên lý mới được toàn thể đại hội nhất trí tán thành"[8]

Về chế độ hoạt động, theo hướng phát huy dân chủ, xác định rõ quyền ngang nhau giữa các đảng viên với tư cách là thành viên của tổ chức mà mình tham gia: “Tất cả các hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau như anh em[9]. Dân chủ được thể hiện thường xuyên trong sinh hoạt đảng của đảng viên như quyền được tự do thảo luận, tranh luận trong khuôn khổ tổ chức của Liên đoàn. Tuy vậy, việc thực thi dân chủ gắn liền với việc giữ vững kỷ cương của Đảng. Đó là quy định mọi đảng viên đều phải chấp hành nghị quyết của Liên đoàn.

Như vậy, dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Các quyết định của Đảng đều được thảo luận công khai, kỹ lưỡng, thậm chí thảo luận nhiều lần qua các kỳ họp để tập hợp, phát huy trí tuệ của mỗi thành viên. Trong thảo luận, tranh luận - thậm chí là "tranh cãi" với nhau để tìm ra chân lý và cuối cùng sẽ quyết định theo đa số. Đây là nguyên tắc quan trọng, cần thiết để tổ chức đảng tồn tại, có sức chiến đấu cao, có tinh thần đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở phát huy đầy đủ dân chủ trong Đảng.

Về chế độ hội họp, Điều lệ quy định các chi bộ và các ban chấp hành khu bộ cũng như Ban chấp hành trung ương họp ít nhất hai tuần một lần; các ban chấp hành khu bộ phải lãnh đạo các cuộc thảo luận tiến hành ở các chi bộ cho phù hợp với mục đích của Liên đoàn. Nếu Ban Chấp hành Trung ương thấy rằng việc thảo luận một số vấn đề nào đó là mối quan tâm chung và trực tiếp, thì có thể đưa những vấn đề ấy ra cho toàn Liên đoàn thảo luận[10].

Về chế độ báo cáo, Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản quy định: Các khu bộ “…ít nhất là cứ hai tháng một, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với tổng khu bộ; ít nhất ba tháng một lần, mỗi tổng khu bộ phải báo cáo tình hình công tác của địa phương mình với Ban chấp hành trung ương[11]. “Các tổng khu bộ phải báo cáo công tác với cơ quan quyền lực tối cao là Đại hội, còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban chấp hành trung ương... Ban chấp hành trung ương là cơ quan chấp hành quyền lực của toàn Liên đoàn và với tư cách đó, phải báo cáo công tác với Đại hội[12].

Hai là, hệ thống tổ chức của đảng cộng sản.

Trong Điều lệ của Liên đoàn Những người cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra hệ thống tổ chức của đảng. Tổ chức của Đảng được thành lập từ cấp chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, đến Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội với những quy định về số lượng thành viên, nguyên tắc hoạt động, quyền hạn lãnh đạo, chế độ hội họp, báo cáo,… nhằm đảm bảo cho bộ máy của Đảng vận hành thông suốt, có hiệu quả từ Trung ương tới chi bộ.

Ba là, những đặc trưng của đảng viên cộng sản, tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng viên cộng sản.

Xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, do yêu cầu lãnh đạo, tổ chức phong trào của đảng cộng sản mà việc xây dựng tổ chức đảng phải chọn được những người tiên phong. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và Đấu tranh giai cấp ở Pháp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu những đặc trưng cơ bản của đảng viên cộng sản, phân biệt với bộ phận còn lại của giai cấp công nhân. Đó là những người “có lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích của Đảng Cộng sản; có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong công tác tuyên truyền; thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo hữu quan về việc mình tham gia vào một tổ chức nào đó; phục tùng các nghị quyết của Đảng; giữ bí mật mọi công việc của Đảng; được một chi bộ nhất trí kết nạp[13]. “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào. Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản[14]. Với những điều kiện, tiêu chuẩn như vậy, sẽ đảm bảo cho đội ngũ đảng viên của Đảng thực sự là những người tiêu biểu, hơn hẳn quần chúng ngoài Đảng cả về nhận thức, tư tưởng, hành động; đủ sức lôi kéo, vận động, thuyết phục toàn thể giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp bóc lột. 

Bốn là, tăng cường kết nạp đảng viên và đưa những người không xứng đáng ra khỏi đảng cộng sản là vấn đề đặc biệt quan trọng để đảng phát triển.

Việc kết nạp hội viên mới của Liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của Liên đoàn tiến hành, với điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ... Ai vi phạm những điều kiện của hội viên sẽ tùy tình hình mà bị gạt ra khỏi Liên đoàn hoặc bị khai trừ khỏi Liên đoàn. Bị khai trừ thì không kết nạp lại… Những tội chống lại Liên đoàn sẽ đưa ra ban chấp hành khu bộ xét xử; ban chấp hành khu bộ phải quan tâm đến việc thi hành bản án. Vì lợi ích của Liên đoàn, cần phải tổ chức việc theo dõi những người buộc phải ra khỏi Liên đoàn và bị khai trừ, cũng như các phần tử khả nghi nói chung, và ngăn ngừa họ làm hại Liên đoàn. Phải lập tức báo cho chi bộ có liên quan biết về những âm mưu của những người đó[15]

Năm là, đảng cộng sản là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Do mục tiêu, tính chất và quy mô của cuộc cách mạng mà đòi hỏi Đảng Cộng sản phải thực sự tập hợp và phát huy được sức mạnh của sự đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân. Cũng do đòi hỏi phải bảo đảm và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tính "tiên phong về mặt lý luận" và "tiên phong trong hoạt động thực tiễn" của người đảng viên mà Đảng đặt ra yêu cầu khách quan về việc giữ vững tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc về tư tưởng, cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt động của Đảng ở tất cả các cấp, với những nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết. Sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức của Đảng là không gì có thể phá vỡ nổi, có tính chiến đấu cao và năng động trong hoạt động thực tiễn. Những quy định chặt chẽ về hệ thống tổ chức của Đảng bảo đảm cho Đảng tồn tại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Lịch sử đã minh chứng, khi nào tổ chức được duy trì ổn định thì Đảng có sức mạnh, trái lại khi tổ chức lỏng lẻo, bị các thế lực thù địch phá vỡ thì tổ chức suy yếu, phong trào cách mạng đi xuống. Vì thế, sau này khi nói về cuộc Cách mạng Pháp năm 1848, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng: “Đảng Công nhân phải hành động sao cho thật có tổ chức, thật thống nhất, thật độc lập, nếu như nó không muốn, như năm 1848, lại bị giai cấp tư sản lợi dụng và phải bám đuôi nó mà lê đi[16]. “Chỉ nguyên tinh thần đoàn kết, dựa trên cơ sở giác ngộ về hoàn cảnh giai cấp giống nhau, cũng đủ để tạo ra và duy trì một chính đảng to lớn của giai cấp vô sản gồm những người công nhân của tất cả các nước và thuộc mọi ngôn ngữ[17]

C.Mác và Ph.Ăng-ghen luận giải trên nhiều nội dung quan trọng. Hai ông cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng Cộng sản và nhấn mạnh việc Đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết và bằng cách đó, Đảng học cách hoạt động tốt hơn.

Sáu là, giữ mối liên hệ mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động là sức mạnh và sự sống còn của đảng cộng sản. 

C.Mác và Ph.Ăng-ghen luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Chính quần chúng là người làm nên lịch sử. Do đó, trong cách mạng XHCN, sức mạnh của đảng cộng sản là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, các đảng cộng sản phải biết dựa vào sức mạnh của quần chúng, phải biết tập hợp, lãnh đạo quần chúng. Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen (năm 1843), C.Mác viết: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân...; không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước[18].

Bảy là, đấu tranh kiên quyết không khoan nhượng với chủ nghĩa cơ hội, bè phái là biện pháp đặc biệt quan trọng để đảng cộng sản vững mạnh, phát triển.

Trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen đã luôn đấu tranh không khoan nhượng với những phần tử cơ hội, xét lại, cải lương với những quan điểm phản xã hội chủ nghĩa như phái Bacunin, phái Pruđông, phái Lát xan và những tên cơ hội khác chui vào Quốc tế I; củng cố Đảng thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đuổi ra khỏi Đảng những phần tử thù địch, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng. 

Trong quá trình lãnh đạo Quốc tế thứ hai, Ph.Ăngghen đã đấu tranh quyết liệt đánh bại tư tưởng, quan điểm cơ hội của Becstanh Cauxky, những lãnh tụ cơ hội của Quốc tế thứ hai; gạt bỏ cản trở, dọn quang con đường xây dựng các đảng cộng sản chân chính, không một chút lệ thuộc vào giai cấp tư sản; ngày càng vững mạnh tạo nên thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đảng cộng sản và phong trào công nhân nhân quốc tế trong thế kỷ XIX.

Tám là, cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mọi hoạt động của đảng cộng sản.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen yêu cầu Đảng phải nắm công tác cán bộ như một tất yếu khách quan. Trong cuốn Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán, hai ông viết: “Xưa nay, tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được; trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ được thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện được tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn[19].

Chín là, chủ nghĩa quốc tế của đảng cộng sản.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đoàn kết quốc tế trong phong trào cộng sản là tất yếu, bởi vì chủ nghĩa tư bản cũng mang tính quốc tế cả về kinh tế và chính trị (liên kết quốc tế chống giai cấp vô sản), do đó, sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản chỉ có thể thực hiện được khi có sự đoàn kết của vô sản tất cả các nước. C.Mác chỉ rõ: “Vì sự thành công của phong trào công nhân trong mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức và mặt khác, vì hiệu quả do Hội đồng Trung ương quốc tế đem lại phụ thuộc phần lớn vào việc là nó sẽ liên hệ với vài trung tâm có tính chất toàn quốc của các đoàn thể công nhân, hay với nhiều đoàn thể nhỏ và phân tán ở các địa phương, cho nên các hội viên của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế sẽ phải đem hết mọi cố gắng của mình ra để thống nhất các đoàn thể công nhân còn rời rạc của nước họ thành những tổ chức có tính chất toàn quốc do các cơ quan Trung ương của cả nước đại biểu[20]. Vì vậy trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã nêu cao khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”.

Khẩu hiệu“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại” đã trở thành phương châm hành động cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong cuộc đấu tranh chống lại toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, nếu độc lập, tách rời, không có sự đoàn kết, thống nhất của các Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản tất cả các nước thì chắc chắn cuộc đấu tranh đó không thể đi đến thắng lợi trọn vẹn, sẽ bị giai cấp tư sản câu kết đàn áp, đè bẹp phong trào. Nếu thiếu sự đoàn kết, thống nhất các đảng sẽ không xây dựng được tổ chức của mình thật sự vững mạnh.

2.3. Những tư tưởng cơ bản về đảng cộng sản cầm quyền

C.Mác, Ph.Ăngghen chưa có điều kiện bàn nhiều về đảng cộng sản cầm quyền, song thông qua những thành quả của Công xã Pari, hai ông đã đưa ra một số tư tưởng chủ yếu, gồm: Hình thức, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa; đảng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo cải tạo và quản lý xã hội; một số nội dung về công tác cán bộ. Đặc biệt, khi trở thành đảng cộng sản cầm quyền, đảng cần đặc biệt coi trọng và chủ động đấu tranh chống lại những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chính quyền; đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn, loại trừ ngay từ khi có những biểu hiện, không để nó phát triển, đe dọa sự tồn tại, phát triển của đảng cộng sản và của Nhà nước vô sản. Những giải pháp đó, gồm: chế độ ủy nhiệm cho những người do nhân dân bầu ra và có thể bị nhân dân bãi miễn bất cứ lúc nào; trả lương của cán bộ ngang bằng lương công nhân; chế độ ủy nhiệm tuyệt đối…

C.Mác viết: “Để tránh cái tình trạng không thể tránh khỏi ấy trong tất cả các nhà nước tồn tại từ trước đến nay - tức là tình trạng nhà nước và các cơ quan nhà nước nguyên lúc đầu là tôi tớ của xã hội, sau biến thành chủ nhân của xã hội - Công xã đã dùng hai biện pháp hết sức công hiệu. Thứ nhất là, Công xã đã ủy nhiệm tất cả những chức vị về hành chính, tư pháp, giáo dục cho những người được chọn ra bằng đầu phiếu phổ thông và đồng thời đã thi hành quyền bãi miễn những người được cử ấy bất cứ lúc nào, căn cứ vào quyết nghị của những cử tri đã bầu ra họ. thứ hai là, nó chỉ trả lương cho các nhân viên công vụ từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất, bằng số tiền lương ngang như tiền lương các công nhân khác…ngoài ra Công xã còn thi hành chế độ ủy nhiệm tuyệt đối với các đại biểu được bầu vào các cơ quan đại biểu[21].

Những tư tưởng thiên tài về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân do C.Mác, Ph.Ăng-ghen khởi xướng đã có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời và hoạt động của “Liên đoàn những người cộng sản”, của Quốc tế I (1864 - 1872) và Quốc tế II (1889 - 1914) (khi Ph.Ăng-ghen còn sống). Sau này, khi Ăng-ghen mất, các lãnh tụ của Quốc tế II đã phản bội và sự xuất hiện đúng lúc của V.I.Lê-nin đã tiếp tục đấu tranh bảo vệ tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen, tiếp tục hoàn thiện, xây dựng thành học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, và sau này khi V.I.Lê-nin phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác, về Đảng, xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dựa trên những quan điểm của V.I.Lê-nin, Đảng Bôn-sê-vích Nga ra đời, lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và năm 1919 Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản được thành lập đã đóng vai trò to lớn cho sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng sản trên thế giới.

II. HỌC THUYẾT VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA V.I.LÊNIN

1. Hoàn cảnh lịch sử V.I.Lênin kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản 

Một là, chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền và trở thành chủ nghĩa đế quốc

Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển tự do cạnh tranh, trong điều kiện hòa bình, dẫn đến độc quyền phản động và trở thành chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp công nhân đã lớn mạnh, luôn có ý thức mạnh mẽ về địa vị giai cấp của mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân và giai cấp công nhân Nga chống chế độ quân chủ chuyên chế thối nát và chống giai cấp tư sản Nga hết sức mạnh mẽ, kết hợp với cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa Nga. Thời cơ nổ ra cách mạng vô sản đã đến gần, nhiệm vụ giành chính quyền trong cách mạng vô sản trở thành nhiệm vụ cấp bách và trực tiếp đặt ra trước những người dân chủ - xã hội Nga.

Hai là, Chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn Quốc tế thứ hai sau khi Ph.Ăngghen mất

Quốc tế xã hội chủ nghĩa (Quốc tế II) do Ph.Ăngghen sáng lập năm 1889 đã đáp ứng những đòi hỏi thực tế của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế những năm 80 của thế kỷ XIX. Tuy nhiên, sau khi Ph.Ăngghen qua đời năm 1895, những đại biểu cơ hội chủ nghĩa của Quốc tế II đã lũng đoạn tổ chức này. Tiêu biểu là E.Berstein và K.Kautsky đã phản bội giai cấp công nhân, theo đuôi giai cấp tư sản, biến nhiều đảng cộng sản lớn ở Tây Âu thành đảng cải lương, xa rời chủ nghĩa Mác, công khai từ bỏ chuyên chính vô sản, làm giảm sức chiến đấu và đánh mất vai trò của các đảng cộng sản. 

Ba là, sự ra đời và khủng hoảng của Đảng dân chủ xã hội Nga cuối thế kỷ XIX

Chủ nghĩa tư bản ở Nga mặc dù ra đời muộn so với nhiều nước ở châu Âu, nhưng phát triển rất nhanh chóng, kéo theo sự tăng lên về số lượng và ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân Nga. Dưới sự áp bức, bóc lột đến cùng cực của tư sản, đế quốc, chế độ phong kiến chuyên chế nửa nông nô Nga hoàng, giai cấp công nhân Nga bị bần cùng tột độ và xuất hiện các cuộc đấu tranh phản kháng. Các tổ chức chính trị vì vậy mà xuất hiện trong các phong trào đấu tranh, tuy vậy còn nhỏ bé, hoạt động rời rạc, chưa có lý luận soi đường. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Nga rơi vào khủng hoảng. Trước yêu cầu đó, Đảng Dân chủ xã hội Nga ra đời (1898). Nhưng tại Đại hội này, V.I.Lênin không tham dự được vì đang bị bắt và tù đày ở Sibêria. Đại hội không thông qua được Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng. Ban Chấp hành Trung ương dù được bầu ra nhưng sau đó bị bắt gần hết. Phong trào công nhân Nga vẫn trong tình trạng khủng hoảng. Nhiệm vụ kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản, xây dựng một chính đảng mới khác về chất so với các đảng cộng sản của Quốc tế II đã giảm sút vai trò lúc bấy giờ được đặt lên vai V.I.Lênin.

Bốn là, Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, Đảng cộng sản Nga và Quốc tế cộng sản ra đời

Sau khi V.I.Lênin trở về, tiến hành thành công Đại hội lần thứ hai của Đảng Dân chủ xã hội Nga, đổi tên thành Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (1903). Tuy nhiên, ngay sau đó, trong Đảng đã phân chia thành hai phái: Bônsêvich (phái cách mạng) do V.I.Lênin đứng đầu và phái Mensêvích (phái cơ hội) do Y.Martov đứng đầu (1905). Tại Hội nghị Đảng năm 1912 tại Praha, phái Mensêvích đã bị khai trừ ra khỏi Đảng. Đảng của những người Bônsêvích do V.I.Lênin đứng đầu chính thức được V.I.Lênin xây dựng theo các nguyên lý đảng kiểu mới do Người đề xuất, ngày càng lớn mạnh và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi năm 1917. Sau thắng lợi đó, Đảng Bônsêvích đổi tên thành Đảng Cộng sản (b) Nga, tiếp tục được xây dựng theo các nguyên lý về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin ngày càng vững mạnh, lãnh đạo cuộc nội chiến thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những thành tựu to lớn.

Tháng 3 năm 1919, V.I.Lênin cùng với các cộng sự của mình thành lập Quốc tế thứ ba - Quốc tế cộng sản, phát huy vai trò mạnh mẽ trong lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân thế giới với sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản mới hoạt động theo các nguyên lý về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin.

2. Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin

Trong các tác phẩm Làm gì ? (3-1902) và tác phẩm Một bước tiến, hai bước lùi (1904), V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản trong điều kiện nước Nga, đề xuất những nguyên lý về chính đảng kiểu mới, xây dựng Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga theo hướng một chính đảng cách mạng thật sự của giai cấp công nhân: 

2.1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng cộng sản

V.I. Lênin từng chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của giai cấp tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra từ hồi thế kỷ XIX[22]. Đó là lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt động của Đảng cộng sản và đương nhiên nó tất yếu phải trở thành hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản. V.I.Lênin chứng minh rằng: nắm được lý luận cách mạng thì giai cấp vô sản và đội tiên phong của nó có được vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất, còn bản thân lý luận khi thông qua họ sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Người chỉ rõ: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong[23]. Học thuyết của Mác là hệ thống lý luận khoa học, vũ khí lý luận, ngọn cờ tập hợp lực lượng của giai cấp vô sản, là cơ sở để chính đảng kiểu mới vạch ra cương lĩnh hành động, chiến lược và sách lược cách mạng, giành chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Các đảng cộng sản phải phát triển lý luận của C.Mác và vận dụng lý luận ấy phù hợp điều kiện cụ thể của mỗi nước.

2.2. Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân

Đảng là tập hợp những người tiên tiến, ưu tú của giai cấp công nhân, thể hiện ở sự tiên phong về hành động và tiên phong về lý luận. Đảng có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật sắt, tự giác, nghiêm minh,, thống nhất ý chí và hành động. Đó là tổ chức của những người giác ngộ cao về mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, triệt để cách mạng, kiên quyết đấu tranh cho lý tưởng đó. “...giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành - và tất nhiên sẽ trở thành - một lực lượng vô địch, chỉ là vì một lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân. Đương đầu với đạo quân ấy, thì tất cả cái chính quyền đã già cỗi của chế độ chuyên chế Nga hoàng lẫn cái uy lực đang già cỗi của tư bản quốc tế cũng đều không thể nào chống lại nổi[24]. “Tính tự giác của đội tiên phong còn biểu hiện ở chỗ là nó biết tự tổ chức. Mà sau khi đã được tổ chức, nó có một ý chí thống nhất, và ý chí thống nhất ấy của một nghìn, một trăm nghìn, một triệu người tiên tiến sẽ trở thành ý chí của giai cấp[25].

Tuy vậy, Đảng không phải là toàn bộ giai cấp công nhân. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: “Đảng phải là đội tiền phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công nhân; toàn thể (hay hầu như toàn thể) giai cấp này hành động dưới sự kiểm soát và lãnh đạo của các tổ chức đảng, nhưng họ không gia nhập tất cả và không được gia nhập tất cả vào Đảng[26]. Đảng là của giai cấp, Đảng gắn liền, không tách rời giai cấp, nhưng Đảng không phải là toàn bộ giai cấp. Không được lẫn lộn giữa Đảng với giai cấp. Nếu lẫn lộn Đảng với giai cấp có nghĩa là phủ nhận vai trò của Đảng là đội tiền phong của giai cấp và trên thực tế là thủ tiêu Đảng.

 2.3. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của đảng

Theo V.I.Lênin, để có thể làm tròn vai trò đội tiên phong của giai cấp cách mạng, thì một mặt, đảng cộng sản phải thực hiện tốt dân chủ để phát huy cao độ trí tuệ, đồng thời đảng phải hoạt động một cách tập trung thống nhất. Do đó, về mặt tổ chức, đảng phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc này sẽ tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, làm cho đảng vững chắc và phát huy được sức mạnh của toàn đảng. Đó là vấn đề thuộc bản chất của đảng, phân biệt đảng kiểu mới của giai cấp công nhân với đảng kiểu cũ - đảng cải lương. 

Tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho Ban chấp hành trung ương lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát được hoạt động của toàn đảng, phát huy được sức mạnh của đảng, đồng thời ngăn ngừa được tình trạng phe phái phá hoại đảng. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của đảng phải dựa trên một điều lệ thống nhất; từ một trung tâm lãnh đạo thống nhất (đại hội đảng và khoảng thời gian giữa các đại hội là ban chấp hành trung ương); có kỷ luật thống nhất; thiểu số phục tùng đa số; việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo phải tiến hành từ dưới lên trên; các cơ quan lãnh đạo của đảng phải báo cáo công tác thường kỳ trước các tổ chức của mình.

V.LLênin khẳng định, một đảng thống nhất và tập trung của giai cấp công nhân phải là một đảng có kỷ luật. Nếú như không có một kỷ luật thống nhất và những trách nhiệm thống nhất trong khi thỉ hành nghị quyết và yêu cầu của điều lệ đảng, sẽ không tránh khỏi biểu hiện bè phái, phe nhóm trong đội ngũ của đảng, những biểu hiện đó sẽ dẫn đảng đến chỗ tan rã. Kỷ luật phải bắt buộc như nhau đối với tất cả mọi đảng viên. 

V.I.Lênin hết sức coi trọng vấn đề dân chủ trong công tác tổ chức và hoạt động của đảng, nhất là việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cấp cao của đảng. Người chưa bao giờ đem đối lập giữa tập trung và dân chủ với tư cách là một nguyên tắc, song việc vận dụng nguyên tắc phải căn cứ vào thực tiễn chính trị của Đảng.

Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán và dân chủ hình thức, dân chủ không có lãnh đạo. 

2.4. Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng

Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh của đảng cộng sản, là điều kiện để đoàn kết giai cấp: “Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả một sự bất đồng không đáng kể, cũng có thể trở thành nguy hiểm về mặt chính trị[27]. Đoàn kết, thống nhất trong đảng là sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự đoàn kết đó dựa trên Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, trên cơ sở lợi ích chung của giai cấp; trên cơ sở nguyên tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt của đảng.

Khi đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện chuyên chính vô sản, sự đoàn kết, thống nhất của đảng lại càng đặc biệt quan trọng. Đảng phải khắc phục mọi sự bất đồng mâu thuẫn, nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng với quần chúng vô sản. Đoàn kết thống nhất trong đảng là cơ sở đoàn kết giai cấp. V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến sự đoàn kết, thống nhất của đảng trong điều kiện đảng cầm quyền: “Chuyên chính vô sản không thể thực hiện được nếu không có sự đoàn kết nhất trí của những người lao động[28]

Sự thống nhất không thể thực hiện được bằng mệnh lệnh mà phải trên cơ sở tự do thảo luận và phê bình. Đồng thời, phải đấu tranh kiên quyết loại trừ những âm mưu chống đối, kích động nhằm phân hóa, chia rẽ sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ đảng. Tự phê bình và phê bình là biện pháp để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất của đảng, là quy luật phát triển của đảng. V.I.Lênin chỉ rõ thái độ “công khai thừa nhận sai lầm” của một đảng là tiêu chí quan trọng để đánh giá xem đảng đó có thật sự là đảng mácxít hay không. 

2.5. Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết ngăn chặn và loại trừ bệnh quan liêu

Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đảng không bao gồm toàn bộ giai cấp. Nhưng đội tiên phong muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì đảng phải liên hệ chặt chẽ với toàn thể quần chúng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng không thể lãnh đạo được giai cấp nếu như đảng không có sự liên hệ với quần chúng công nhân ngoài đảng và các tầng lớp lao động khác; đồng thời nếu đảng không được quần chúng tin cậy về mặt chính trị, tinh thần thì cũng sẽ không nhận được sự ủng hộ của họ, V.I.Lênin viết: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp[29].

Trong mối liên hệ với quần chúng, đảng phải khắc phục khuynh hướng lệch lạc xa rời quần chúng, đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng theo đuôi quần chúng, hạ thấp trình độ đảng xuống ngang trình độ quần chúng. Trở thành đảng cầm quyền; đảng có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân; nhưng khi đó đảng viên cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, tham nhũng dẫn đến thoái hóa, biến chất, xa rời nhân dân. V.I.Lênin coi đây là một trong những nguy cơ tiềm tàng mà đảng cầm quyền cần đề phòng, khắc phục. Để Đảng luôn giữ được mối liên hệ mật thiết với nhân dân - theo V.I.Lênin - trước hết đảng phải đổi mới lề lối làm việc của mình, phải làm cho đảng thật sự là đội tiên phong của giai cấp vô sản cách mạng.

2.6. Đảng cộng sản tăng cường kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi đảng

Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng, để nâng cao uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng. V.I.Lênin khẳng định: “Chúng ta cần những đảng viên mới không phải để quảng cáo mà là để làm việc thật sự. Những người đó chúng ta kêu gọi vào hàng ngũ của đảng ta. Chúng ta mở rộng cửa để đón những người lao động[30]. Đồng thời “Cần phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược[31]

Đảng cộng sản không chỉ kết nạp những những người ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân mà còn kết nạp những người ưu tú xuất thân từ các giai cấp, tầng lớp lao động khác vào đảng, giáo dục, rèn luyện họ theo lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân.

2.7. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo chuyên chính vô sản và là một bộ phận của hệ thống đó

Đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là thành công bước đầu. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt, mà tiếp tục diễn ra dưới những nội dung, hình thức và phương pháp mới. Để phối hợp hành động và hướng hoạt động của cả hệ thống chính trị vào xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng là một bộ phận của hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Bởi vì “…không thông qua đảng cộng sản thì không thể thực hành chuyên chính vô sản được[32].

Trở thành đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo nhà nước và định hướng phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, không một lúc nào được phép buông lỏng sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước, vì điều này sẽ thủ tiêu sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa và mở đường cho những phần tử phản động cướp chính quyền, đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa.

2.8. Đảng cộng sản mạnh lên do thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong đảng

V.I.Lênin chỉ ra đặc điểm chung của chủ nghĩa cơ hội là: “…phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng và dứt khoát; bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thỏa thuận” với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại[33]

Những kẻ cơ hội chính trị không có quan điểm chính trị rõ ràng, luôn ngả nghiêng, dao động, không kiên định nguyên tắc cơ bản trong đường lối của đảng. Khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra “cấp tiến”, khi cách mạng gặp khó khăn thì thoái lui, thỏa hiệp. Những người này thường che giấu bộ mặt thật, vừa tỏ ra ủng hộ đường lối của đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác, vừa với danh nghĩa đổi mới tư duy để bổ sung, cụ thể hóa đường lối của đảng, mà thực chất là sửa lại đường lối của đảng. Họ sẵn sàng quỳ gối, uốn lưỡi cho vừa lòng và hợp với quan điểm của cấp trên và quần chúng, hòng tăng phiếu ủng hộ trong các dịp bầu cử. Cơ hội chính trị gắn chặt với chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về đạo đức, lối sống. V.I.Lênin nhấn mạnh: “chủ nghĩa cơ hội là sự hy sinh lợi ích căn bản của quần chúng cho lợi ích tạm thời cửa một số hết sức ít công nhân, nói cách khác tức là sự liên minh giữa một bộ phận công nhân với giai cấp tư sản để chống lại quần chúng vô sản[34]. Vì vậy, Người chỉ rõ: đối với chủ nghĩa Mác, nghĩa vụ thiêng liêng của những người mácxít là phải bảo vệ lý luận đó, chống lại những mưu toan xuyên tạc và hạ thấp lý luận cách mạng. 

2.9. Tính quốc tế của đảng cộng sản

Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ chức, hoạt động của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của đảng cộng sản. Bản chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Do đó, V.I.Lênin khẳng định: “Không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được[35]. Đảng phải giáo dục đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bên cạnh đó phải tích cực chống những biểu hiện sôvanh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng là cơ sở, nền tảng để xây dựng các đảng cộng sản trong Quốc tế ba mà trước hết là Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga, Đảng Cộng sản (b) Nga đưa đến thắng lợi vĩ đại của Cách Mạng Tháng Mười Nga 1917. Tiếp tục trở thành cơ sở lý luận vững chắc xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô - nhân tố đóng vai trò to lớn trong lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa Liên Xô trở thành thành trì, trụ cột của phong trào cách mạng thế giới, đảm bảo ổn định tình hình chính trị thế giới gần nửa thế kỷ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II, năm 1945. 

 

Phần 2:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

image
Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là cội nguồn sức mạnh, khẳng định tính chính danh và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta; đồng thời là “lửa thử vàng” để khẳng định Đảng ta là chính đảng mácxít mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu nắm vững, vận dụng đúng đắn, sáng tạo và bổ sung phát triển học thuyết Mác về xây dựng đảng nói chung, tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân nói riêng là đòi hỏi khách quan đối với các Đảng Cộng sản. Đặc biệt, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vừa có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn, vừa là cơ sở khoa học đảm bảo cho việc xây dựng Đảng ta thực sự là đội tiền phong, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, lãnh đạo đưa dân tộc Việt Nam tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để phấn đấu vươn lên thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất của Đảng

1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03-02-1930 là sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây không chỉ là đặc thù của Việt Nam mà còn là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn gắn bó với dân tộc, là “con nòi” của dân tộc, được toàn dân gọi là Đảng ta.

2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam

Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh trước hết “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[36]. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam 

Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng dựa trên cơ sở Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể Nhân dân lao động và cả dân tộc thừa nhận và đi theo. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 được bổ sung phát triển năm 2011 và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam...”. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được quy định bởi: (1) mục tiêu, đường lối, hệ tư tưởng, thế giới quan của Đảng đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; (2) về lợi ích, Đảng ta gắn bó máu thịt với lợi ích của dân tộc và Nhân dân ta. Việc khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam...” không làm mất đi bản chất giai cấp công nhân của Đảng, trái lại làm cho nó sâu sắc và đầy đủ hơn. 

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng 

1. Nội dung chính tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng 

1. 1. Xây dựng Đảng về chính trị 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị thực chất là xây dựng đường lối chính trị của Đảng, thể hiện qua Cương lĩnh chính trị và các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Từ đó, Đảng mới có đường lối chiến lược cũng như phương hướng, kế hoạch rõ ràng, cụ thể để lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Đồng thời, Đảng luôn chú trọng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Do đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chú trọng đến nội dung xây dựng Đảng về chính trị. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm “cốt”, làm nền tảng tư tưởng và “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin sẽ không thể đưa một đảng cách mạng đến thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”[37]. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không những là “kim chỉ nam” mà còn là “mặt trời soi sáng” cho con đường cách mạng nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên rằng, mục tiêu cuối cùng của Đảng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lập trường kiên định của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, lập trường của Đảng là mục tiêu, lập trường của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc. Mục tiêu và lập trường đó phải luôn được thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị cũng như trong mọi công việc hoạch định, xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng; nếu rời bỏ thì không sớm thì muộn sẽ dẫn đến sai lầm về đường lối chính trị, khiến cho Đảng không còn là một đảng chân chính và cách mạng.

1.2. Xây dựng Đảng về tư tưởng 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là vũ khí lý luận, là nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, bởi vậy, trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nội dung then chốt trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nếu học không hiểu hoặc hiểu mà không biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cách mạng nước ta thì sẽ không đưa lại kết quả mong muốn. Người chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông... Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế... Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên[38]. Học lý luận là để nắm vững lý luận và điều cốt lõi là phải biết vận dụng lý luận vào thực tiễn, vào tất cả các tình huống khác nhau của đời sống xã hội. Có như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới thực sự đóng vai trò là “hạt nhân chính trị”, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động thực tiễn của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin phải luôn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ. Đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng.

1.3. Xây dựng Đảng về tổ chức

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng Đảng về tổ chức là vấn đề có ý nghĩa then chốt; sức mạnh của Đảng là sức mạnh của tổ chức, là sức mạnh của hệ thống chính trị trong tổ chức, từ Trung ương đến địa phương, từ các cơ quan nhà nước đến các đoàn thể nhân dân. Theo Người, mục đích của xây dựng Đảng về tổ chức là làm cho Đảng trở thành một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh; một tổ chức có sức mạnh chiến đấu với một đội ngũ cán bộ, đảng viên thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, bởi vậy, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương phải thật sự chặt chẽ, có ý thức kỷ luật cao. Sức mạnh của mỗi tổ chức, đoàn thể có sự liên quan chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh chung của cả hệ thống, mặc dù mỗi cấp độ tổ chức có chức năng và nhiệm vụ riêng. Trong hệ thống tổ chức đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ, vì chi bộ là tổ chức hạt nhân chính trị ở cơ sở, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường trực tiếp cho việc tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên.

Cùng với xây dựng tổ chức đảng, Người đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Người cho rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng[39]. Theo đó, việc sử dụng, cất nhắc cán bộ “…phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái[40]. Trên cơ sở những ưu điểm, năng lực của người cán bộ mà đề bạt, cất nhắc họ một cách khách quan, công tâm, đúng người, đúng việc. Người phê bình mạnh mẽ việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ theo hướng cục bộ, địa phương, Người viết: “Có những đồng chí còn giữ thói “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này, việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng việc, đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”. Người làm công tác cán bộ “nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục” và như thế là “có tội với Đảng, có tội với đồng bào”[41]. Một chân lý lớn lao mà Người căn dặn Đảng phải thực hiện cho kỳ được trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào để Đảng có được những cán bộ, đảng viên tốt, xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, đó là Đảng phải hết sức quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ trẻ “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết[42] trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng để không lạc hậu đối với cuộc sống, ngày càng tiến bộ không ngừng. Người chỉ rõ: “Thời đại chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng... làm cách mạng để tự giải phóng và để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành xã hội mới tốt đẹp... là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ... Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang,... Muốn gột sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu. Mà thoái bộ và lạc hậu thì sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải[43].

1.4. Xây dựng Đảng về đạo đức

 Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng là đạo đức, là văn minh", nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”. Người luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng. Người cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người viết: Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân[44].

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có đạo đức cách mạng thì nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Người khẳng định: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"[45]. Người cho rằng, trước hết phải giáo dục bằng tấm gương của chính mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói để cảm hóa, giáo dục người khác theo phương châm “…một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền[46].

Không chỉ đề cao tầm quan trọng việc nêu gương của bản thân, Người còn yêu cầu mỗi cá nhân phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm. Trong đời sống hàng ngày, cái tốt và cái xấu, đạo đức và phi đạo đức luôn luôn đan xen. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải chống những gì phi đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích để xây. Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật"[47].

Tu dưỡng đạo đức là công việc phải làm bền bỉ suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"[48]"Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất".

2. Tính tất yếu khách quan xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn gắn liền với quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ, Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Để đảm nhiệm vai trò tiên phong, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ tất yếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi: “Vì sao ta phải chỉnh Đảng?”. Theo Người, chỉnh Đảng trước hết vì yêu cầu về năng lực và phẩm chất để đáp ứng vai trò lãnh đạo của Đảng: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng thường được Người đặt ra khi Đảng ta, dân tộc ta đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới: đương đầu với một kẻ thù mới, một chiến lược mới của kẻ thù hoặc do những thiếu sót, khuyết điểm trong đường lối, chủ trương của Đảng hoặc thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối. Việc Đảng siết chặt đội ngũ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh tình trạng dao động, giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên, kiên định mục tiêu, lý tưởng, vượt qua khó khăn được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách khi cách mạng đứng trước thử thách. Khi cách mạng trên đà thắng lợi cũng cần chỉnh đốn Đảng. Trong trường hợp này, chỉnh đốn Đảng để khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật. Chỉnh đốn Đảng để khắc phục tình trạng tự cao, tự đại, phòng, chống bệnh “kiêu ngạo cộng sản” theo cách nói của Lê-nin. Theo người “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính[49].

Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn. Người chỉ rõ: Quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng. Mặt khác, quyền lực có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, biến quyền lực của Nhân dân thành quyền lực của cá nhân…Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân[50]. Do đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là điều căn cốt nhất giúp Đảng ta trở thành một Đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”.

III. Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức sinh hoạt Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh 

1. Nguyên tắc tập trung dân chủ 

Là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập trung” và “dân chủ”; mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại. Hồ Chí Minh khẳng định: Tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên quyền hoặc tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. “Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng; từ đó, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người[51].

Dân chủ là của quý báu nhất của Nhân dân, là thành quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện tư tưởng phải được tự do; đối với mọi vấn đề, mọi người được quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý; đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Hơn nữa, có dân chủ trong Đảng mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ thực sự.

2. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

Là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Người viết: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo ? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm[52].

Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, kế hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành, để xác định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của mỗi cá nhân. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. "Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong"[53]. Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền, hay ngược lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu rõ “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau[54].

3. Nguyên tắc phê bình và tự phê bình 

Là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu, thiện, ác trong lòng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt hàng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi. Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm giống như người có bệnh. Vì vậy phải uống thuốc. Tự phê bình là thuốc đắng nhưng giã tật. Ngược lại nếu không tự phê bình thì như người có bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính[55].

Một điều rất quan trọng là cách thức tự phê bình và phê bình; tự phê bình và phê bình trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê bình và tự phê bình phải thực thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết điểm. Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu phê bình và tự phê bình. Phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình như: Thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.

4. Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác

Hồ Chí Minh coi “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên[56]. Người cho rằng, nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động dễ chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng. Kỷ luật Đảng rõ ràng, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện quan trọng bảo đảm cho Đảng thật sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức; bảo đảm cho đường lối của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện thắng lợi. Sức mạnh của một tổ chức đảng và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Hồ chí Minh luôn khẳng định kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”, “Không có kỷ luật sắt không có Đảng[57]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật[58]. Người yêu cầu đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của Nhân dân[59]. Củng cố và tăng cường kỷ luật Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mọi đảng viên và mọi tổ chức đảng.

5. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng 

Đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; Nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp. Muốn đoàn kết thống nhất phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình[60]. Có đoàn kết thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người"[61].

6. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân 

Theo Hồ Chí Minh, để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng nhất thiết phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[62]. Thông qua hoạt động thật sự trong phong trào quần chúng, người đảng viên mới có điều kiện bộc lộ rõ bản lĩnh, tính tiền phong, gương mẫu và năng lực tổ chức thực tiễn của người đảng viên. Đó cũng là một trong “tiêu chuẩn đảng viên”: “… Phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng: Nghĩa là: phải toàn tâm toàn lực phụng sự quần chúng; luôn nghe ngóng những yêu cầu và ý kiến của quần chúng và báo cáo cho Đảng rõ; phải tuyên truyền giải thích cho quần chúng rõ chính sách và nghị quyết của Đảng, làm cho quần chúng nhận chính sách và nghị quyết ấy là của họ, để quần chúng vui vẻ và ra sức thi hành; phải phụ trách trước quần chúng, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần chúng; phải học hỏi quần chúng phải đi đúng đường lối quần chúng để lãnh đạo quần chúng[63]. Vì vậy, thực hiện tốt nhiệm vụ thường xuyên giữ mối liên hệ giữa đảng viên và quần chúng là trực tiếp tăng cường sức mạnh cho Đảng, cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

IV. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng - sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong xây dựng Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới

1. Đảng ta kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong giai đoạn cách mạng mới

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn  Đảng, 95 năm qua kể từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chăm lo công tác xây dựng Đảng. Qua đó, giữ vững vị trí, vai trò của mình, lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, lập nên những chiến công vang dội trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. 

Trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tư duy nhạy bén, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại, thực tiễn thế giới và trong nước, từ đó đề ra những chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sát thực tiễn, lãnh đạo Nhân dân ta giành được nhiều thành tựu to lớn, có tính lịch sử. Nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo có tính bước ngoặc thể hiện rõ tầm nhìn, tư duy nhạy bén, sáng tạo của Đảng được ban hành thực hiện như: Đường lối đổi mới đất nước (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986); Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011); các nghị quyết tại các kỳ Đại hội của Đảng và nhiều nghị quyết khác của Đảng toàn diện trên các lĩnh vực của Đảng, của đất nước. Cùng với đó, Đảng ta luôn chú trọng tăng cường củng cố, xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định vững chắc mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời Đảng ta luôn chú trọng tăng cường củng cố, xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, đảm bảo cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh “là đạo đức”, “là văn minh”, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo đối với toàn hệ thống chính trị. 

Đặc biệt kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, tại Đại hội XII của Đảng, nội dung xây dựng Đảng về đạo đức được đưa thành nội dung riêng, cùng với chính trị, tư tưởng và tổ chức trở thành một trong bốn nội dung của công tác xây dựng Đảng. Gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Theo đó, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng như: Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 02-02-1999 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-01-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gon, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới ...

Đồng thời, học tập và làm theo Bác là một chủ trương của Đảng, đã được Đảng ta đề cập lần đầu tiên tại Đại hội Đảng toàn quốc năm 1951 và dần trở thành một chủ trương xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Trong hơn 20 năm trở lại đây, Đảng ta đã ban hành 04 Chỉ thị, 01 Kết luận để tổ chức tuyên truyền, giáo dục, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 27-3-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07-11-2006 của Bộ Chính trị khóa X về tổ chức Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011, của Ban Bí thư  khóa XI “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Kết luận số 01-KL/TW năm 2021 của Bộ Chính trị khóa XIII, về tiếp tục Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 về “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng và hệ thống chính trị đã quán triệt, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Và thành tựu 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng sống động cho đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt và đạt nhiều kết quả tích cực, nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Tuy nhiên, với tinh thần nghiêm túc nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm. Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp uỷ coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ. Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân. Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời. Việc thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng; chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng nông thôn còn nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Đối với Đảng bộ tỉnh Kon Tum, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Đảng bộ tỉnh Kon Tum đã luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Bác và các chủ trương, đường lối, Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, vận dụng cụ thể hóa đề ra nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo sát tình hình địa phương, lãnh đạo xây dựng tỉnh nhà đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, hệ thống chính trị từng bước được kiện toàn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đã kịp thời tổ chức phổ biến, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07-11-2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...Gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng, kiện toàn bộ máy hệ thống chính trị tỉnh. Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế được thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Công tác cán bộ được thực hiện đúng quy trình, quy định; đội ngũ cán bộ cấp xã từng bước được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đảng bộ tỉnh luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức.

Tuy nhiên, từ thực tiễn xây dựng Đảng bộ tỉnh, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XV tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã nghiêm túc chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng Đảng bộ đó là: Việc nắm bắt dư luận xã hội, tư tưởng, tâm trạng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân có lúc chưa sâu sát, kịp thời. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế... Năng lực quản lý, điều hành của chính quyền có nơi hiệu quả chưa cao. Cải cách hành chính còn hạn chế, nhất là cải cách hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai. Công tác kiểm tra ở một số tổ chức đảng thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm có trường hợp chưa nghiêm.

2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức”, “là văn minh” trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. 

Bước vào giai đoạn phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" còn diễn biến phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện tốt điều này, Đảng và các tổ chức đảng trong toàn Đảng phải:

Một là, thường xuyên tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng. Đây là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện tốt vấn đề này, trước hết Đảng và các tổ chức đảng trong toàn Đảng phải kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; các nguyên tắc xây dựng Đảng; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược. Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập lý luận chính trị, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân; xây dựng chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị định kỳ, thường xuyên đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và Nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chủ động định hướng thông tin, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ đoàn kết nội bộ. Quản lý và đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong việc lập và sử dụng mạng xã hội trên Internet.

Hai là, gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức. Việc nhấn mạnh, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức bao hàm ý nghĩa coi đây là khâu đột phá, phải ra sức nâng cao nhận thức và thực hành đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, nhất là tinh thần trách nhiệm và nêu gương, đó là sức mạnh để phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó cũng là thể hiện sự thấm nhuần và thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người coi “đức là gốc”. Xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay phải thực hiện sáng tạo theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kiên quyết, kiên trì thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thì nội dung xuyên suốt là mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định rõ bổn phận công bộc của mình, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. 

Ba là, ra sức xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả mô hình chi bộ, đảng bộ cơ sở “Bốn tốt” [64] theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Đảng cần tập trung nỗ lực và hành động đồng bộ, quyết liệt trong đổi mới thể chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hành dân chủ rộng rãi, thực chất trong Đảng, nhất là tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, hoan nghênh nhân dân phê bình, giám sát; tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tu thân, chính tâm. Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại đảng viên bảo đảm thực chất. Gắn xây dựng, kiện toàn bộ máy của Đảng với kiện toàn bộ máy hệ thống chính trị; xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả.

Chú trọng tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm, đây là vấn đề “then chốt của then chốt”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “đào tạo, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Trong mọi việc lớn, việc nhỏ, hằng ngày, suốt đời, cán bộ phải đặt lợi ích của Nhân dân và đất nước lên trên hết, trước hết. Phải chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không dính líu gì với vòng danh lợi; ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phải thực hiện và đề cao trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải chú trọng sự nêu gương, nhất là gương mẫu về đạo đức.

Bốn là, để thực hiện lời dạy của Bác “Đảng là đạo đức, là văn minh”, phải ra sức đưa các giá trị văn hóa vào trong chính trị, trong đời sống của Đảng và Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị. Quyết tâm của Đảng là làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, hệ thống chính trị cũng phải trong sạch, vững mạnh. Có như vậy mới có sức mạnh tổng hợp đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, tệ nạn và tiêu cực xã hội. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh nội sinh từ văn hóa.

Phải tập trung mọi nỗ lực trong Đảng với sự tham gia xây dựng Đảng của toàn dân để xây dựng Đảng về văn hóa, xây dựng văn hóa của Đảng cầm quyền. Do vậy, cần phải làm cho hình tượng văn hóa của Đảng Cộng sản cầm quyền là tiêu biểu cho văn hóa, tinh hoa văn hóa của dân tộc và thời đại mà Văn hóa Hồ Chí Minh là một mẫu mực điển hình. Đạo đức là cốt lõi của văn hóa cho nên trong Đảng phải thường xuyên đẩy mạnh giáo dục, thực hành văn hóa, chú trọng giáo dục trong toàn Đảng về phẩm giá, lòng tận tụy, danh dự, liêm sỉ. Nói như Hồ Chí Minh: phải dùng văn hóa để chữa thói phù hoa, xa xỉ, tham nhũng. Cần phải coi đây là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tầm chiến lược trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Năm là, thường xuyên củng cố, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Đây là vấn đề bảo đảm cho sự nuôi dưỡng và phát triển bền vững cơ sở xã hội quan trọng bậc nhất của Đảng, đó là lòng dân, sức dân, niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân với Đảng, là cội nguồn sức mạnh bảo vệ Đảng. Do đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đặc biệt chú trọng công tác dân vận. Dân vận phải gắn liền với dân chủ, đoàn kết và tạo ra sự đồng thuận. Người căn dặn, chúng ta phải nêu cao quyết tâm, giữ được tín tâm, có sức hấp dẫn, thu hút lớn bởi sức mạnh đồng tâm từ Đảng tới Dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, đó là một trong những thước đo của xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho sự hài lòng của người dân đối với cán bộ đảng viên tăng lên, làm cho niềm tin của Nhân dân với Đảng được củng cố. 

3. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng, chỉnh đốn Đảng 

Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và hành động. Đảng bao gồm hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu cầu nối giữa Đảng với Nhân dân. Để góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực chung sức xây dựng tổ chức cơ sở đảng nơi mình sinh hoạt, công tác thực sự vững mạnh, bởi vì “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt[65]. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải:

Thường xuyên quán triệt, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, sự cần thiết và những nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thấy rõ trách nhiệm, vinh dự của bản thân khi được học tập, kế thừa, vận dụng và làm theo tư tưởng của Người, từ đó không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, góp phần xây dựng Đảng, trước hết là cấp ủy, chi bộ nơi sinh hoạt thực sự trong sạch, vững mạnh.

Không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về những nội dung cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước. Tích cực tham gia xây dựng, lan tỏa những thành tựu của Đảng, của địa phương, cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, việc làm sai trái bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, nghị quyết của Đảng, của cấp ủy, chi bộ.

Tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực toàn diện; nêu cao tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thường xuyên quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ đảng viên. Tích cực tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết của cấp ủy, chi bộ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải thường xuyên gần dân, sát dân, lắng nghe dân, tích cực tuyên truyền vận động Nhân dân chấp hành và thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tạo cầu nối vững chắc giữa Đảng, cấp ủy, chi bộ địa phương với Nhân dân, làm cho chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, qua đó góp phần tăng cường củng cố, tạo niềm tin và sự gắn bó giữa Đảng với Nhân dân.

Thường xuyên tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; luôn đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác, gương mẫu trong chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt quy định đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với tổ chức đảng nơi cư trú; gương mẫu trong thực hiện văn hóa công sở; nêu cao tinh thần đồng chí, đề cao tự phê bình và phê bình, xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất cao trong từng cấp ủy, chi bộ, cơ quan, đơn vị. Tuyệt đối không sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là các biểu hiện vô nguyên tắc, mất dân chủ, cục bộ, bè phái, kèn cựa, háo danh, cầu lợi, chạy chức, chạy quyền, tham ô, tham nhũng, tiêu cực, lối sống bê tha, hủ hóa, xa hoa, lãng phí, thờ ơ, vô cảm... Giữ vững tư cách của người đảng viên.

*

Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người khẳng định, Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để lãnh đạo Nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của Nhân dân, do vậy Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.


 


[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1995, t.21, tr.321

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.608

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995,tập 18, tr.203

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.614

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.615

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr. 456

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.626

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 21, tr.326

[9] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 21, tr.327

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.736

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.736

[12] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.735

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr. 732

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr. 614-615

[15] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 4, tr.733, 737

[16] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 7, tr.343

[17] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 21, tr.338

[18] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 1, tr.347

[19] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 2, tr.181

[20] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H. 1995, tập 16, tr.27

[21] C.Mác-Ph.Ăngghen: Tuyển  tập, Nxb Sự thật,  Hà Nội - 1970, tập 1, tr.583

[22] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, tập 23, tr.50

[23] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tập 6, tr.32

[24] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.8, tr.490

[25] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.24, tr.47

[26] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tập 7, tr.352

[27] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chinh trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.42, tr.336.

[28] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.40, tr.260.

[29] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.8, tr.293.

[30] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.41, tr.233

[31] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.44, tr.154

[32] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.43, tr.150

[33] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.8, tr.476-477.

[34] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006, t.26, tr.307-308.

[35] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva,1977, tr..206 

[36] Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd. t.2. tr.289.

[37]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t2, tr289.

[38]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr273-275.

[39]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr 309.

[40]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t5, tr 321.

[41]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t5, tr 321.

[42]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t11, tr 622

[43]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t11, tr 600-602.

[44]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr 292.

[45] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr 522.

[46]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t1, tr 284.

[47] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t15, tr 547.

[48] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t9, tr 293.

 

[49]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t5, tr 301.

[50] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t15, tr 611- 612.

[51] Hồ Chí Minh, Sđd, t6, tr 17.

[52] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, t619.

[53] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, t619.

[54] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t10, tr 311.

[55] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. t5. tr 301.

[56]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. t10. tr311 

[57]. Hồ Chí Minh, Sđd, t5, tr 553.

[58]. Hồ Chí Minh, Sđd, t10, tr 311.

[59]. Hồ Chí Minh, Sđd, t7, tr 31.

[60] Hồ Chí Minh, Sđd, t15, tr 622.

[61] Hồ Chí Minh, Sđd, t6, tr 17.

[62] Hồ Chí Minh, Sđd, t5, tr 286.

[63] Hồ Chí Minh, Sđd, t7, tr. 237-238.

[64]. Hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; chất lượng sinh hoạt tốt; đoàn kết, kỷ luật tốt; cán bộ, đảng viên tốt.

[65]Hồ Chí Minh: Toàn tập,tập 15, tr 113.

Tác giả: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

« tháng 04/2025 »
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
31010203040506
07080910111213
14151617181920
21222324252627
28293001020304

Lịch sử hình thành

Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên huyện ĐăkTô được thành lập[1] trên cơ sở sáp nhập Trung tâm Dạy nghề ĐăkTô (Thành lập năm 2005) và Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện ĐăkTô (Thành lập năm 2008). Là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Ủy ban Nhân dân huyện ĐăkTô, có nhiệm vụ...

Lịch công tác
Hệ thống văn bản quản lý, điều hành tỉnh Kon Tum
Thư công vụ tỉnh Kon Tum
Trang thông tin điện tử UBND huyện Đăk Tô
Chuyên trang Giáo dục nghề nghiệp
Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tuyển sinh
Kiến thức nông nghiệp
Hội nghị viên chức, người lao động năm 2024 Hội nghị viên chức, người lao động năm 2024 Hội nghị viên chức, người lao động năm 2024 Hội nghị viên chức, người lao động năm 2024 Hội nghị viên chức, người lao động năm 2024
Văn bản

377/QĐ-GDNN-GDTX

Quyết định về việc ban hành Quy chế làm việc của Trung tâm GDNN - GDTX huyện Đăk Tô

Thời gian đăng: 29/09/2024

lượt xem: 224 | lượt tải:71

04/QĐ-GDNN-GDTX

Quyết định ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ

Thời gian đăng: 03/03/2021

lượt xem: 3105 | lượt tải:640

01/TB-GDNN-GDTX

Thông báo phân công nhiệm vụ trong lãnh đạo trung tâm

Thời gian đăng: 08/04/2022

lượt xem: 1626 | lượt tải:404

146a/QĐ-TTĐT

Quyết định ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở

Thời gian đăng: 03/03/2021

lượt xem: 1443 | lượt tải:476

49/QĐ-TTĐT

Quy chế làm việc của Trung tâm GDNN - GDTX huyện Đăk Tô

Thời gian đăng: 08/04/2022

lượt xem: 2281 | lượt tải:847
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây